Qúa trình khôi phục và phát triển

Quá trình khôi phục và phát triển nền kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1962 đến 1994, nền kinh tế Hàn Quốc đã tăng trưởng trung bình trên 10% mỗi năm, giai đoạn này được gọi là “Kỳ tích trên dòng sông Hán“.

Sau Chiến tranh Triều Tiên, vào giai đoạn lịch sử trước khi Tướng Park Chung Hee lên nắm quyền vào năm 1961, kinh tế Hàn Quốc khá nghèo nàn với thu nhập bình quân đầu người ít hơn $100 USD mỗi năm. Hàn Quốc thời điểm đó được xếp hạng là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Ở giai đoạn này, kinh tế Hàn Quốc cơ bản phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài, chủ yếu là từ Mỹ. Khi đó, viện trợ của Chính phủ Mỹ chiếm tới gần 80% tổng ngân sách của chính phủ và chiếm một tỉ lệ rất lớn trong tổng sản phẩm quốc gia (GNP) của Hàn Quốc. Mặc dù một số khu vực của đất nước đã trải qua quá trình công nghiệp hóa từ thời kỳ chiếm đóng của Nhật Bản, nhưng nhìn chung vào đầu thập niên 60 Hàn Quốc vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu và kém phát triển hơn về mọi mặt so với nền kinh tế của CHDCND Triều Tiên vốn được Trung Quốc, Liên Xô và khối các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa giúp đỡ, hậu thuẫn. Để tái tạo động lực phát triển kinh tế, Park Chung Hee đã mang “kỷ luật quân đội” và chính sách độc tài áp dụng trên toàn quốc. Một trong những mục tiêu chính của tướng Park là chấm dứt tình trạng lạc hậu, nghèo đói ở Hàn Quốc và biến đất nước từ một nền kinh tế thuộc Thế giới thứ ba trở thành một cường quốc kinh tế hàng đầu của thế giới.[33]

Ngay sau khi thực hiện thành công cuộc đảo chính để lên nắm chính quyền vào tháng 7 năm 1961tướng Park Chung Hee tuyên bố rằng ông sẽ tiến hành “dọn rác” để làm sạch, thanh lọc xã hội.[34] Ông đã trực tiếp chỉ đạo các lực lượng cảnh sátquân đội thực hiện hàng ngàn vụ đàn áp, bắt bớ và tuyên bố trước hơn 20.000 sinh viên của Đại học Seoul rằng:

        “Toàn dân Hàn Quốc phải thắt lưng buộc bụng trong vòng 5 năm, phải cắn răng mà làm việc nếu muốn được sống còn. Nếu làm được như vậy thì trong vòng 10 năm tới, chúng ta sẽ tạo ra được một nền kinh tế đứng đầu ở khu vực Đông Á, và sau 20 năm, chúng ta sẽ trở thành Cường quốc kinh tế trên thế giới. Chúng ta sẽ khiến cho thế giới phải ngưỡng mộ, phải nể phục, tôn trọng chúng ta... Hôm nay, có thể còn có một số người dân vẫn bất đồng ý kiến với tôi, nhưng xin những đồng bào ấy hiểu cho rằng, tổ quốc của chúng ta quan trọng hơn quyền lợi cá nhân. Tôi không thích mị dân, tôi sẽ cương quyết ban hành một chính sách khắc khổ. Tôi sẽ bắn bất cứ kẻ nào ăn cắp của công dù chỉ một đồng. Tôi sẵn lòng chết cho lý tưởng mình đã đề ra”.[35]

Việc đầu tiên ông làm là đem tử hình 24 quan chức và doanh nhân vì tội tham nhũng. Mọi người đều phải làm việc hết sức mình, ai làm không chăm sẽ bị phê bình, mắng nhiếc trước mặt mọi người, thậm chí, trong văn hóa, nội quy của các công ty, doanh nghiệp Hàn Quốc thời bấy giờ có quy định “nếu như nhân viên mắc lỗi, làm sai hoặc lười biếng thì cấp trên có quyền tát bạt tai để làm gương mà người đó không được phép tỏ thái độ hay phản đối”. Một số ngành do quân đội xây dựng, khi người lính làm việc không chăm, cấp trên có quyền trừng phạt bằng đòn roi. Những du học sinh trước khi ra nước ngoài học tập phải cam kết không ở lại nước ngoài mà phải về nước phục vụ dù muốn hay không, những ai đã học xong mà không quay về nước thì gia đình họ sẽ phải chịu những hình phạt nặng.

Tổng thống Park Chung-hee đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển nhanh chóng nền kinh tế Hàn Quốc thông qua công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu.

Park chuyển chiến lược của nền kinh tế đất nước từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa định hướng xuất khẩu. Park thành lập một Ủy ban Kế hoạch Kinh tế (EPB) để điều hành nền kinh tế đất nước. Lấy kế hoạch năm năm của Liên Xô làm kiểu mẫu, Park đã đề ra Kế hoạch năm năm đầu tiên vào năm 1962, nhiệm vụ chủ chốt của Kế hoạch năm năm đầu tiên là tập trung phát triển các ngành công nghiệp nhẹ nhằm mục đích xuất khẩu. Ông tuyên bố thành phố Ulsan là một “khu vực phát triển công nghiệp đặc biệt” của đất nước. Ngay sau đó, Hyundai – một trong những tài phiệt lớn đầu tiên của Hàn Quốc đã nhanh chân tận dụng vị thế đặc biệt của Ulsan để biến thành phố này thành nơi đặt các nhà máy chính của mình.

Hầu hết các nhà sử học đều coi Kế hoạch năm năm đầu tiên là điểm cất cánh của nền kinh tế Hàn Quốc. Từ năm 1962 đến năm 1966, tốc độ tăng trưởng của kinh tế Hàn Quốc đạt tới 7,6%. Sản lượng xuất khẩu tăng trên 30% mỗi năm, sản lượng sản xuất tăng trên 15% mỗi năm. Vì các chính sách phát triển kinh tế của Park được thúc đẩy bởi chủ nghĩa dân tộc và mong muốn giành quyền tự chủ cho đất nước của mình, do đó Park chủ trương không để cho nền kinh tế của Hàn Quốc bị phụ thuộc và chi phối bởi nước ngoài. Do đó, ban đầu ông đã ra sức hạn chế đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Hàn Quốc. Tuy nhiên, theo lời khuyên của các nhà kinh tế, ông bắt đầu dần dần nới lỏng những hạn chế này. Năm 1966, Đạo luật kích thích vốn đầu tư nước ngoài được chính phủ Park thông qua đã cung cấp những ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài và hợp lý hóa quy trình đầu tư vào Hàn Quốc. Kế hoạch năm năm lần thứ hai (1967-1971) cũng đã nhấn mạnh hơn vào việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài và cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước.[36]

Vào năm 1972, Park tuyên bố thiết quân luật và ban hành một hiến pháp mới mang lại cho ông ta quyền lực tuyệt đối tới mức gần như trở thành một nhà độc tài. Sử dụng quyền lực của mình, Park đã chuyển hướng nền kinh tế của đất nước sang tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp nặng và hóa chất. Từ năm 1973, nền kinh tế Hàn Quốc đặt trọng tâm chủ yếu vào 6 ngành: théphóa chấtluyện kimchế tạo máyđóng tàu và điện tử. Giai đoạn phát triển công nghiệp này tập trung tại các thành phố nhỏ nằm ở phía đông nam của đất nước.[37]

Kế hoạch phát triển kinh tế của Park Chung Hee là dựa vào xuất khẩu nhờ giá thành thấp. Chi phí sản xuất được cố tình hạ thấp đến mức tối thiểu bằng cách toàn dân phải cam chịu gian khổ, tiêu dùng hết sức tiết kiệm. Để người lao động có thể sống với mức lương rất thấp, chính quyền đã áp dụng biện pháp giữ giá những sản phẩm nông nghiệp ở mức rất thấp. Cuối thập niên 70, các tập đoàn công nghiệp của Hàn Quốc đã sản xuất được máy thu hình màu, nhưng chỉ để xuất khẩu, trong nước chỉ dùng TV trắng đen. Các sản phẩm xa xỉ như mỹ phẩmxe hơi cao cấpquần áo thời trang… đều bị hạn chế nhập khẩu ở mức tối đa.

Quá trình công nghiệp hóa nhanh chóng của Hàn Quốc cũng phải trả giá bằng sự hy sinh rất lớn của tầng lớp lao động. Quyền của người lao động bị hạn chế tối đa vì từ năm 1962, chính sách toàn quốc thắt lưng buộc bụng được áp dụng triệt để, không có ngoại lệ, từ Tổng thống, quan chức đến dân chúng. Người dân, người lao động Hàn Quốc thời kỳ đó phải làm việc cật lực, nặng nhọc và triền miên, nhưng sống rất kham khổ. Hàng tuần mỗi người dân đều phải nhịn ăn một bữa, không hút thuốc lá ngoại nhập, không uống cà phê, không mặc quần áo thời trang đắt tiền. Thời gian lao động kéo dài đến 12-14 tiếng mỗi ngày. Điều kiện lao động kém, tiền lương rất thấp. Những phản kháng tự phát của công nhân, nông dân hoặc của dân nghèo thành thị đòi hỏi cải thiện điều kiện sống đều bị chính quyền Park Chung Hee đàn áp không thương tiếc. Như Michael Schuman, một nhà báo nổi tiếng chuyên về kinh tế của thời báo Time (Mỹ) về sau nhận định:

                “Chế độ Park Chung Hee đã thực hiện quyền kiểm soát nhà nước đối với nền kinh tế một cách tàn bạo vượt xa cả con quỷ Sahashi”.[38]

Một phụ nữ Việt Nam 21 tuổi bị lính Hàn Quốc cắt  trong cuộc thảm sát tại làng Phong Nhị, tỉnh Quảng Namngày 12 tháng 2 năm 1968.

Mặt khác, Hàn Quốc đã cử khoảng 320.000 quân nhân sang tham chiến cùng với Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam để đổi lấy những khoản viện trợ từ phía chính phủ Mỹ (một chính sách xuất khẩu lính đánh thuê). Ước tính có hơn 5.000 binh lính Hàn Quốc đã chết và khoảng 11.000 lính khác bị thương tật nặng trong cuộc chiến này[39][40]. Đội quân này cũng gây ra một danh sách dài những tội ác chiến tranh, những vụ thảm sát thường dân Việt Nam bị nghi ngờ là du kích Việt Cộng khi tham chiến và đã bỏ lại nơi đây hàng ngàn đứa con lai sau khi rời đi (phía Hàn Quốc thống kê lính của họ đã giết tổng cộng khoảng 41.000 người Việt Nam[41], phần lớn là thường dân). Đổi lại, chính phủ Hoa Kỳ tài trợ mọi khoản chiến phí và trả tiền lương cho lính Hàn Quốc. Tổng cộng Mỹ đã viện trợ hoặc cho Hàn Quốc vay ưu đãi khoảng 10 tỷ USD (tương đương 70 tỷ USD theo thời giá năm 2017) từ năm 1946 tới năm 1978. Trong đó nhiều nhất là trong giai đoạn 1965-1972, khi Hàn Quốc cử lính sang Việt Nam để đánh thuê cho Mỹ: chỉ riêng trong 8 năm này, Hàn Quốc nhận được 5 tỷ USD viện trợ của Mỹ (tương đương 35 tỷ USD theo thời giá 2017), nhiều gấp 3 lần mức viện trợ trong giai đoạn trước. Trong hai năm đầu (1965-1966), thu nhập từ việc đánh thuê cho Mỹ chiếm 40% thu nhập ngoại hối của Hàn Quốc. Một số học giả cho rằng số tiền có được từ cuộc chiến chiếm từ 7-8% GDP của Hàn Quốc trong những năm 1966-1969.[42] Số tiền đánh thuê được chuyển thẳng cho chính phủ Hàn Quốc dưới hình thức “bán công khai” như trợ cấp phát triển quốc phòng, hợp đồng dân sự, chuyển giao công nghệ và ưu đãi thị trường bởi các Tổng thống Johnson và Nixon.[43] Các công ty Hàn Quốc như Hyundai đã tích lũy được những kinh nghiệm quý báu trong việc hoàn thành các dự án xây dựng và giao thông cho Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, kinh nghiệm mà họ đã áp dụng để giành được nhiều hơn những hợp đồng béo bở ở Trung Đông và nhiều nơi khác trên thế giới.

Nhờ viện trợ và tiền lương của Mỹ trả cho binh lính Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam, kinh tế Hàn Quốc phát triển nhanh chóng. Chỉ trong 10 năm từ 1964 tới 1974, GNP bình quân của Hàn Quốc đã tăng hơn 5 lần (từ 103 USD lên 541 USD). Rất nhiều máu đã đổ khi lính Hàn Quốc tham chiến ở Việt Nam, và nhiều ý kiến khẳng định rằng những tổn thất sinh mạng đó đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của Hàn Quốc[41]. Sau này, trong bài phát biểu nhân “Ngày tưởng niệm” (6/6/2017), Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã khẳng định rằng:[44]

             “Nền kinh tế Hàn Quốc đã tồn tại được là nhờ vào sự cống hiến và hy sinh to lớn của những người lính tham gia chiến tranh Việt Nam!”.

Nhật Bản cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc. Park đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Nhật Bản vào năm 1965, một động thái gặp phải sự phản đối gay gắt của người dân Hàn Quốc. Lao động giá rẻ ở trong nước kết hợp với vốn và công nghệ của Nhật Bản đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc. Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, Nhật Bản đã trở thành nhà đầu tư nước ngoài lớn thứ hai ở Hàn Quốc, chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Trong vòng mười năm sau đó, thương mại giữa hai nước đã mở rộng hơn mười lần; Từ năm 1962 đến 1979, 60% công nghệ từ nước ngoài của Hàn Quốc là do Nhật Bản cung cấp[45]. Thị trường Mỹ cùng với các khoản đầu tư và chuyển giao công nghệ của Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự chuyển biến thần kỳ của nền kinh tế Hàn Quốc. Kinh tế Nhật Bản cũng là một mô hình hoàn hảo để Hàn Quốc noi theo trong công cuộc phát triển kinh tế. Trong thời kỳ thuộc địa và kể cả sau khi giành được độc lập, người Hàn Quốc đã học hỏi được rất nhiều điều từ người Nhật về những gì mà một quốc gia không thuộc phương Tây có thể làm để công nghiệp hóa và hiện đại hóa thành công. Một nhà kinh tế học người Hàn Quốc đã mô tả chính sách của cộng đồng doanh nghiệp nước này là “Làm hệt như những gì người Nhật đã làm, nhưng làm điều đó một cách nhanh hơn, hiệu quả và ít tốn kém hơn”.[46]

Park Chung Hee cho rằng, Hàn Quốc trước tiên cần phải phát triển kinh tế vững mạnh rồi sau đó mới có thể có được dân chủ:

              “Người châu Á sợ hãi đói nghèo hơn là sợ độc tài. Các dân tộc châu Á muốn có bình đẳng kinh tế trước rồi sau đó mới có thể nghĩ đến chuyện xây dựng một cơ chế chính trị công bằng hơn… và, viên ngọc mang tên dân chủ chắc chắn sẽ chẳng bao giờ có thể trở nên rực rỡ, nó là vô nghĩa đối với những người đang đói khát và tuyệt vọng”. 

Bằng lý lẽ này, Park Chung Hee sử dụng hệ thống cảnh sát mật để theo dõi và dẹp tan mọi hành vi chống lại ông. Tất cả mọi cá nhân có phát ngôn hoặc hành động chống lại Chính phủ, mọi cuộc biểu tình đòi tăng lương đều bị trấn áp thẳng tay. Park Chung Hee sử dụng luật an ninh chống cộng để bỏ tù và tra tấn bất cứ ai bất đồng chính kiến. Các cuộc biểu tình, hệ thống báo chí và phát ngôn nói chung đều bị kiểm duyệt hà khắc. Các sĩ quan cảnh sát mang thước và chặn thanh niên trên phố để đo tóc và váy của họ. Chính quyền sẽ can thiệp rất thô bạo nếu thanh niên để tóc dài, phụ nữ mặc váy ngắn. Gián điệp, chỉ điểm có mặt khắp mọi nơi, giám sát đến cả trường học. Những người bất đồng chính kiến khó thoát khỏi bị bắt và kết cục là cuộc sống mòn mỏi ở trong tù. Ở Hàn Quốc thời điểm này, nếu một người bị quy là người cộng sản, người đó sẽ mất hết mọi quyền tồn tại trong xã hội. Quy kết và phê phán nhằm vào một chính sách nào đó của chính phủ, chính khách đối lập là mang tư tưởng “Cộng sản chủ nghĩa” là phương cách được chính quyền Park ưa thích và tận dụng rất hiệu quả. Khi một nhà hoạt động xã hội bị bắt, người đó sẽ bị tra tấn dã man để phải thú nhận mình là người cộng sản[47]. Cho đến nay, không một chính trị gia Hàn Quốc nào có thể tạo được một sự uy quyền bao trùm tuyệt đối lên đất nước cũng như khiến cả một thế hệ người dân Hàn Quốc sợ hãi như Park Chung Hee.

Chế độ độc tài quân sự của Park Chung Hee mang tính chất chuyên chế độc đoán, phản dân chủ mạnh mẽ, nhưng cũng không thể phủ nhận những mặt tích cực của chế độ chính trị này đối với việc định hướng diện mạo nền kinh tế và xã hội Hàn Quốc ngày nay[22]. Bên cạnh các biện pháp chính trị, Park Chung Hee sử dụng các yếu tổ văn hóa Nho giáo để thúc đẩy phát triển đất nước. Vào đầu những năm 1970, Park Chung Hee dự định dẹp bỏ tất cả những gì gọi là truyền thống để nhanh chóng đạt được hiện đại hóa. “Phong trào xây dựng nông thôn mới” đã đập phá nhiều di sản văn hóa, những truyền thống đều bị coi là “cổ hủ”, “lạc hậu” và “lỗi thời”, cần phải gạt bỏ nhanh chóng để tiến lên hiện đại hóa. Nhưng về tư tưởngPark Chung Hee nhận thấy ông không thể đưa ra được một học thuyết chính trị mới nào để thay thế Nho giáo mà nhận ra rằng, không thể không sử dụng những yếu tố tích cực của Nho giáo, trong đó, Trung (trung thành) và Hiếu (hiếu thảo) là giá trị quan xuyên suốt nhiều thế kỷ ở Hàn Quốc. Đã xảy ra nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng giữa các học giả Hàn Quốc về tính hữu dụng của truyền thống, của yếu tố tích cực trong Nho giáo mà kết quả cuối cùng là Park Chung Hee đã đi đến quyết định: “Giá trị quan của Nho giáo về “Trung” và “Hiếu” là nền tảng của xã hội”, những chính sách giáo dục đề cao đạo Khổng được ông ra chỉ thị tiếp tục dạy trong nhà trường và truyền bá sâu rộng trong đời sống nhân dân.[48]

Hàn Quốc là chủ nhà của hội nghị G-20 trong hội nghị thượng đỉnh Seoul 2010.

Sự tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này đã cải thiện đáng kể mức sống cho người dân Hàn Quốc. Cuối năm 1965, khoảng 58,7% lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 50,4% vào năm 1970 và 38,4% vào năm 1978. Công nghiệp hóa dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng dân số đô thị của Hàn Quốc, tăng từ 28,3% tổng số năm 1960 lên 54,9% vào năm 1979. Năm 1960, khoảng một phần ba trẻ em từ 12 đến 14 tuổi theo học tại các trường trung học; tỷ lệ đó tăng lên 53,3% vào năm 1970 và 74,0% vào năm 1975. Năm 1960, chỉ có khoảng 19,9% dân số từ 15 đến 17 tuổi đi học; tỷ lệ đó tăng lên 29,3% vào năm 1970 và 40,5% vào năm 1975[49]. Năm 1970, quá trình xây dựng tuyến đường cao tốc Gyeongbu đã được hoàn thành, liên kết Seoul với khu vực phía đông nam của quốc gia và các thành phố cảng lớn như Incheon và Busan[50]. Vào năm 1969, cả nước chỉ có 200.000 máy truyền hình, đến năm 1979 đã có sáu triệu máy truyền hình [51]. Nếu như vào năm 1969, chỉ có 6% hộ gia đình ở Hàn Quốc sở hữu một chiếc TV; thì đến năm 1979, đã có 4/5 hộ gia đình Hàn Quốc sở hữu TV.[51]

Nhờ những biện pháp cứng rắn về chính trị, khắc khổ về kinh tế cũng như sử dụng yếu tố văn hóa, từ thập niên 1960, kinh tế Hàn Quốc phát triển với tốc độ rất nhanh. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1979, Tổng thống Park Chung Hee bị ám sát. Một thời kỳ hỗn loạn chính trị tiếp diễn, cộng với sự tăng vọt của giá dầu mỏ trong năm 1979, một vụ thu hoạch lúa thất bát và tỷ lệ lạm phát đáng báo động là 44%, khiến cho nền kinh tế Hàn Quốc phải chịu mức suy thoái lên tới 6% trong năm 1980. Nhưng nền kinh tế đã nhanh chóng phục hồi. Thập niên 1980 chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP cao, đạt đỉnh điểm vào những năm 1986-1988 ở mức 12% mỗi năm, nền kinh tế Hàn Quốc trở thành nền kinh tế đạt mức tăng trưởng cao nhất thế giới thời điểm đó. Hàn Quốc được xếp vào một trong những nước công nghiệp hóa mới (NICs) của thế giới. Những năm sau đó, tốc độ tăng trưởng chậm lại, nhưng nền kinh tế Hàn Quốc tiếp tục tăng trưởng nhanh cho đến năm 1996 với tốc độ tăng trưởng trung bình là hơn 10% mỗi năm [52]. Năm 2004GDP của Hàn Quốc là 680 tỷ USD (Đô la Mỹ), vươn đứng thứ 12 trên thế giới. Giai thoại về sự thành công trong công cuộc phát triển kinh tế của Hàn Quốc được gọi là Kỳ tích sông Hán (한강의 기적).

Tổng hành dinh của Tập đoàn Samsung – Chaebol lớn mạnh nhất Hàn Quốc.

Trong bối cảnh chính trị như vậy, nền kinh tế Hàn Quốc cũng phát triển theo mô hình “Độc tài”. Các Chaebol – tức Tài phiệt (財閥, 재벌)[53], là tên gọi của các đại tập đoàn gia đình lớn của Hàn Quốc. Thông thường tài phiệt là các tập đoàn đa quốc gia, với thành viên bao gồm rất nhiều các doanh nghiệp quốc tế[53] nhưng đều nằm dưới sự điều khiển của một ông chủ nắm quyền hành trên tất cả các cơ sở này.[53][54] Hiện nay, ở Hàn Quốc có đến hàng chục nhóm tài phiệt như vậy, hầu hết nằm dưới sự điều khiển tuyệt đối của một vài gia tộc. Đến năm 2008, khoảng 80% GDP của Hàn Quốc có nguồn gốc từ các tài phiệt[55], chỉ riêng Samsung đã chiếm tới 1/5 giá trị xuất khẩu của nước này. Các tài phiệt đóng một vai trò quan trọng trong việc chi phối nền chính trị Hàn Quốc. Ví dụ, vào năm 1988, chủ tịch của tập đoàn Hyundai là ông Jeong Mong-jun đã trúng cử vào Quốc hội Hàn Quốc. Một số lãnh đạo tài phiệt khác cũng trúng cử đại biểu quốc hội thông qua cơ chế đại biểu tỷ lệ.

Các tài phiệt chỉ nắm giữ một phần nhỏ cổ phần nhưng lại có rất nhiều quyền lực và có khả năng kiểm soát tất cả các công ty con. Ví dụ Samsung chỉ sở hữu 0,5% tài sản của các hãng thuộc quyền, nhưng thực tế thì một tổ chức mẹ có quyền chi phối mọi mặt tất cả các công ty con này. Điều này cho thấy mức độ tuân thủ pháp luật ở các tài phiệt Hàn Quốc là rất thấp.[54] Các tài phiệt duy trì quyền lực của mình thông qua việc sở hữu chéo (cross-holding).[56] Các tài phiệt lũng đoạn nền kinh tế của Hàn Quốc, một số công ty như Hyundai và SK thậm chí có dính líu đến các vụ bê bối liên quan tới các tổng thống như Kim Dae-jungRoh Moo-hyun.[57]

Từ 1998 đến 2007, Hàn Quốc đã có những tiến bộ trong tiến trình dân chủ hoá, song đôi khi vẫn trượt theo hướng độc tài. Đã có rất nhiều tổ chức phi chính phủ giả hiệu (pseudo-NGOs) hoạt động theo mệnh lệnh của chính quyền, nhiều nhóm cánh hữu, nhiều tổ chức hiện “vẫn tìm cách bảo vệ những quyền ưu tiên mà họ có được từ thời của chế độ độc tài. Ở Hàn Quốc, quá trình dân chủ hoá diễn ra trong bối cảnh của tăng trưởng kinh tế nhưng không phải là sự phát triển kinh tế trực tiếp thúc đẩy dân chủ hoá. Các phương thức phát triển kinh tế trở nên phản nhân văn và mang nặng tính bóc lột. Người Hàn Quốc hiện nay phải gánh chịu rất nhiều áp lực trong cuộc sống, nhất là về sự thành công, công việc và học tập.[58]

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *